Kỳ 2: Vùng đất mang tên sông

Chặng đường phải đi dài trên dưới 70km, chỉ duy nhất một lối mòn men triền núi dọc theo sông. Từ Mường Luân sẽ qua Phá Thẹ, Pắc Ma, Bản Pó, Mường Nưa, Nà Dìa, Chiềng Sơ… Nhưng hỏi cả bốn chàng trai Lào đồng ý đưa chúng tôi đi bằng bốn xe máy, thì vẫn chưa ai trong số họ từng đi một mạch hết cung đường này.

Kỳ 2: Vùng đất mang tên sông ảnh 1

Nơi đầu nguồn sông Mã, nhánh xuất phát từ Tuần Giáo (Điện Biên)

Cộng cư nhiều dân tộc

Nếu không phải dân ở đây, dù có được cho xe, ta cũng không tài nào đi nổi trên cung đường này. Lối mòn men theo bờ vực lúc thì lởm chởm đá tảng, lúc lại trơn tuột những triền núi đất. Hết dốc ngược như đi lên trời, lại cắm đầu xuống thung sâu, nhiều lần phải xuống xe đi bộ vì sợ lộn nhào.

Nhưng cảnh sắc thì quá sức ngoạn mục và hùng vĩ. Núi tiếp núi trùng điệp. Dòng sông đoạn nào cũng gầm réo thác ghềnh với những cô nàng người dân tộc thong thả ra sông tắm trần như tiên nữ. Đang ở đỉnh dốc nắng chói chang, thoắt đổ dốc lại chui vào mây luồng mịt mờ khí lạnh.

Giữa trưa chúng tôi mới tới được ngã ba Pắc Ma, nơi gặp nhau của hai dòng đầu nguồn từ Tuần Giáo chảy sang và từ Mường Luân chảy xuống. Bắt đầu từ điểm hợp lưu này, con sông Mã chính thức có tên trên bản đồ.

Cung đường vừa qua chỉ 15 cây số mà có đến gần chục dân tộc sinh sống: Phù Lá, Khơ Mú, Lào, Mường, Xinh Mun, Thái, H’mông…

Đoạn sau ngã ba Pắc Ma, núi hạ thấp dần độ cao, sông đã trở nên rõ nét với những chuyến phà ngang. Buổi trưa, chúng tôi dừng nghỉ một quán bên đường tại chợ Mường Nưa, xã Mường Lầm, thuộc huyện Sông Mã. Một tốp đông các cô gái H’mông sặc sỡ áo váy đi chợ, ghé quán ăn trưa. Một đặc điểm riêng biệt của người H’mông là bản làng của họ luôn ở tít tận trên các đỉnh núi cao, mỗi lần xuống chợ để mua bán hàng hoá, họ phải đi cả ngày đường và thường đi theo từng tốp đông đảo.

Ngôi nhà của ma

Ten Ư là tên của cả rặng núi, thuộc xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã. Chúng tôi quyết định lên núi khi biết trên đó có quần thể hang động còn trong hoang sơ. Không ngờ trên đỉnh núi là một cao nguyên nhỏ với một bản H’mông trù mật, xanh um nương sắn, nương ngô, những vườn cây ăn trái.

Đang mùa đi nương, cả bản không bóng người. Người H’mông có thói quen đi nương cả nhà, trẻ con chưa biết đi thì mẹ địu trên lưng. Rất may cho chúng tôi là một trong ba anh xe ôm đã có lần lên hang, dù cách nay đã mấy năm. Lội bộ vượt qua một trái núi đất đã thành nương sắn. Lại tiếp trái núi thứ hai là một rừng tre hoang, phải len lỏi từng bước. Hơn một giờ thì chúng tôi cũng tới được hang.

Cửa hang rộng hơn sải tay, ăn sâu hút xuống lòng núi. Trước miệng hang có ai đó đặt tấm liếp nhỏ bằng tre đan trên bốn chân cọc. Bên cạnh dựng một ống nứa đựng nước và trên liếp còn rủ đống xương gà. Người ta cúng ma đấy, anh xe ôm nói. Theo quan niệm của người H’mông thì những hang động này là nhà ở của hồn ma, nên khi lên rừng lấy gỗ, đào củ, bẻ măng… họ vẫn mang theo thức ăn, nước uống cúng ma để xin phép vào rừng.

Nương theo hai thân tre chừng 3m, chúng tôi tụt xuống hang. Bên ngoài trời đang 36 độ mà trong hang khí lạnh sởn da, rất khó thở, bật quẹt không cháy được. Đi qua đoạn hẹp chừng hơn 10m thì hang đột ngột rộng ra chừng 50m, sâu hun hút. Qua ánh đèn pin, vòm cao hơn chục mét với vô vàn thạch nhũ mang đủ hình người và quái thú. Càng đi sâu vào hang, càng dễ thở dần. Nghe nói ở cuối hang có khoảng trống nhìn thấy trời trên đỉnh núi. Nhưng lần dò đi sâu chừng hơn 200m, chúng tôi quyết định trở ra vì… sợ.

Trên đường về chúng tôi gặp được trưởng bản Vừ A Súa. Ông Súa cho biết cả dãy núi này có đến 36 hang. Hang mà chúng tôi vừa xuống là hang Cau Liêu (tiếng Thái là quả chanh). Cau Liêu chỉ là hang trung bình. Hang lớn nhất là hang Thám Báo, trong hang còn có cả một thửa lúa nương…

Sông Mã thành Nậm Mã

Sau cầu phao Mường Nưa, chúng tôi còn phải một lần sang ngang sông Mã bằng đò tại bản Nà Dìa, xã Yên Hưng. Tay lái của mấy anh bạn Lào như làm xiếc khi đưa xe xuống con đò gỗ mong manh. Cô lái đò Hoàng Thị Viên, người Thái, cho biết, cô không phải là người lái đò chuyên nghiệp. Con đò là tài sản chung của bản. 38 gia đình trong bản cứ luân phiên nhau mỗi nhà chở đò một ngày. Lệ tục đẹp đẽ này truyền nối ở bản Nà Dìa đã bao đời nay.

Từ sau bến đò Nà Dìa, con sông Mã bắt đầu từng lúc rời bỏ những vách núi dựng đứng để trải ra những bãi bờ phù sa xanh mướt, những cánh đồng bậc thang, những nương ngô, những vườn vải thiều…

Và khi mặt trời khuất núi chúng tôi cũng may mắn kết thúc cuộc hành trình về đến thị trấn Sông Mã. Đây là vùng đất duy nhất mang tên con sông này. Thị trấn nhỏ nhoi nằm trọn trong thung lũng núi ở độ cao hơn 1.500m. Thị trấn bên bờ sông mà không một bến thuyền. Còn cầu treo nối đôi bờ, trên thực tế là treo lơ lửng ngang hẻm núi.

Trước khi trở thành nhà văn nổi tiếng, Nguyễn Huy Thiệp từng có hơn chục năm dạy học ở miền núi heo hút này. Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ và nhiều truyện ngắn có bối cảnh miền núi đều được ông thai nghén từ đây. Chúng tôi thử đi tìm hỏi xem bản Hua Tát ở đâu, thì hoá ra nó chỉ có trong trí tưởng tượng của tác giả.

Chảy qua thị trấn chừng 30km, đến Chiềng Khương thì sông Mã đổ vào đất Lào và có tên là Nậm Mã.

Theo Nguyễn Trọng Tín (SGTT )

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm