Một ngôi làng quanh năm đỏ lửa

Một ngôi làng quanh năm đỏ lửa ảnh 1

Ông Trần Quang Đông - chủ lò bánh Phương Đông - chăm sóc bếp bánh - Ảnh: Nguyễn Văn Thọ

Bếp lửa bập bùng suốt đêm sáng ấm những dãy nhà hai bên con lộ, soi tỏ cả mặt đường, mang vào trong gió mùi thơm man mác của lá dong, mùi nếp chín rền... mùi vị quen thuộc bao đời nay của người dân Việt. Ngày tết, khách bốn phương qua đây nhận ra mùi thơm đặc trưng tết, lòng nôn nao... Nơi đấy, phố thị trung du ấy, chính là làng nghề Bờ Đậu, thuộc xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.

70 gia đình nhà nghề

Tháng 4-2009, chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên vừa có quyết định công nhận Bờ Đậu là làng nghề Bờ Đậu. 70 gia đình có quy mô sản xuất khá nhất trong 200 gia đình tại làng đã được công nhận nhà nghề, trong đợt đầu thuộc thành viên chính thức của làng nghề.

Hỏi chuyện cũng không ai nhớ người nào của làng đã mang bánh chưng Bờ Đậu ra giới thiệu với thiên hạ, để làm nên danh tiếng và được công nhận là làng nghề nhiều người biết tới như hôm nay. Người dân ở đây coi việc gói bánh là bình thường vì cha ông họ đã làm bao đời rồi. Chị Ngô Thị Lan tại gia đình ông Nguyễn Hải Âu cho hay biết làm bánh thì lâu lắm, song bắt đầu làm bánh bán từ năm 1997.

 Nhưng gia đình ông Trần Quang Đông, 53 tuổi, chủ cửa hàng bánh Phương Đông ở ngay ngã ba, thì đã ba đời làm bánh bán. Ông Đông thuê tới bảy nhân công cho bốn lò bánh luôn đỏ lửa cả bốn mùa. Vụ giáp tết, ngày ngày đưa ra thị trường cả ngàn chiếc bánh. Ngày thường, vào dịp hè cũng phải năm sáu trăm bánh...

Mọi thứ phải thật

Bánh chưng Bờ Đậu rất thơm và mềm. Theo bà Ngô Thị Loan - nhân viên nhà gói bánh Hải Âu, chẳng có gì đặc biệt để tạo nên cái bánh ngon. Bà bảo bánh phải ninh cho kỹ, từ 12-14 giờ, không cho bất kỳ loại hóa chất nào nhằm giảm thời gian luộc bánh. Từ lá tới gạo thịt phải chọn lựa thật tươi tốt. Nước ở nguồn Bờ Đậu, lá dong từ Bắc Kạn, Tuyên Quang về. Gạo mua đa số là gạo nếp Thái Bình, hạt đều mây mẩy. Tới khâu nén bánh cũng làm đúng, đủ thời gian cho bánh chặt và ráo nước.

Vợ ông Đông, bà Phạm Thị Phương, lại nói: “Người làm bánh Bờ Đậu không ngâm gạo như các nơi khác. Gạo bị ngâm sẽ một phần lên men và chua, bảo quản không được lâu. Chúng tôi đãi gạo rất kỹ trong nguồn nước Bờ Đậu và để ráo hết nước mới gói bánh”. Bà Phương giải thích: “Gạo không ngâm thì không chua, bánh để được lâu hơn.

Do không ngâm nên khi luộc hạt gạo nở ra liên kết với nhau thành một khối, luộc kỹ tới 14 giờ rồi vớt ra nén cẩn thận thì bánh rền lắm. Bánh của nhà chúng tôi đi Hà Nội, vào Sài Gòn, lên tận Đà Lạt và nhiều khách Tây lên Ba Bể đi ngang qua nếm thử thích lắm, có nhiều ông bà Tây cũng mua dăm cái mang đi”.

Bà nói thêm: “Làm bánh không khó lắm và chúng tôi cũng không giấu giếm kỹ thuật làm bánh, ai đi qua hỏi vợ chồng tôi đều phổ biến kinh nghiệm chứ không bí mật gì”. Ông Đông khoe: “Phải nói là trời đất ban cho chúng tôi nguồn nước rất sạch và tốt”.

Cô Nghiêm Hồng Hạnh, 18 tuổi, nhân viên làm bánh tại Bờ Đậu, cho hay hằng ngày học làm bánh từ bánh tầy (bánh tét), bánh chưng to nhỏ các loại. Học từ cách rửa lá, vo gạo, đãi đỗ, tước gân bánh tới pha lọc thịt. Gói bánh không dễ, phải không quá chặt tay, gói chặt quá bánh sẽ chóng lại gạo, lỏng tay thì bánh nhão. Để hình dáng bánh đẹp, đều từng loại theo giá tiền, bà Phương có cái bảng ghi rõ gạo bao nhiêu, thịt bao nhiêu, tới lá cũng phải cân từng chiếc thì bánh mới đều và đẹp...

Nghề làm loại bánh quen thuộc này thật sự mang lại cho Bờ Đậu một nguồn lợi lớn. Bà Phương khoe: “Nhà tôi có ba cháu. Từ cái nghề này việc nuôi nấng ba đứa con, cho chúng ăn học, vợ chồng tôi không lo lắng gì cả. Dân làng Bờ Đậu gia đình nào có nghề làm bánh đều no đủ, chả ai thiếu thốn”.

Theo NGUYỄN VĂN THỌ (TTCT)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm