Tiếng hoẵng tác

Hè năm tôi tốt nghiệp cấp III, nhà tôi xuất hiện một thằng nhóc ra ôn thi lớp 10. Nó tên thằng Thi, nhà nó ở Thương Diêm, trồng rẫy. Cha mẹ nó, anh chị nó cứ cắm mặt với bầy bò và mấy mẫu rẫy mùa đậu phộng, đậu ván, mùa trồng dưa hồng, thêm một vườn mãng cầu dai. Ước mơ của cha mẹ nó là có một đứa con học lên cấp III nhưng anh chị nó toàn bỏ học giữa chừng lấy vợ lấy chồng.

Học trò ở xa về huyện học thường tìm các nhà quanh trường để thuê trọ. Cha nó mang cặp vịt, một bịch mãng cầu, chở theo nó và một bao gạo tới nhà tôi xin cho nó trọ học. Ông run run: Gửi con ở đâu cũng hông bằng nhà thầy giáo, xin thầy cho nó ở đây. Mỗi thứ Bảy nó lại đón chiếc xe khách chạy bằng than về làng, chiều Chủ nhật lại mang gạo xuống. Gửi gạo thôi, cơm thì có gì ăn nấy chung với gia đình tôi.

Có nó, tôi có thêm đứa sai vặt, bù lại tôi chỉ cho nó học, kể chuyện này chuyện kia cho nó nghe. Nó nói sao anh biết nhiều quá vậy, tôi nói tao đọc sách. Nó, tất cả những gì đã đọc chỉ là sách giáo khoa vì nơi cái xóm rẫy lưng dựa vào núi và tứ bề phía thì biển, phía đồng muối ấy không có sách gì khác cả. Bù lại nó biết nhiều thứ, từ bắt gà rừng bằng bẫy cò ke đến săn thỏ, săn nhím.

Từ đó cứ chiều thứ Bảy là tôi theo nó về xóm rẫy Thương Diêm, tối đi săn với anh em nó. Anh thằng Thi tên là Bảy, làm du kích xã, có một khẩu AR15 nhưng đạn thì xã phát cho có mấy viên. Muốn đi săn phải mua đạn từ những bà đồng nát nên viên nổ viên không, mỗi viên giá bằng hai ký gạo. Thời đó người ta vẫn nhặt được đạn ven những khu trại lính hoặc sân bay dã chiến cũ.

Ăn cơm xong, 4 giờ chiều khi mặt trời chưa khuất núi, ba anh em mang theo thuốc rê và bình ton đựng trà đậm pha đường rồi đeo gùi, mang súng nhắm hướng núi Hòn Bằng sau nhà mà bước. Cả ba ngồi rình lũ heo rừng cứ xẩm tối từ núi xuống phá rẫy bắp. Rình mãi không gặp, bù lại buổi săn nào cũng có vài con thỏ hay một con nhím.

Anh Bảy là một tay thiện xạ. Anh nói bắn thỏ bằng AR15 thì không khéo chỉ còn cái đùi sau, còn bắn AK thì khỏi ăn luôn. Con thỏ rừng chỉ hơn ký nhưng lỗ đạn sẽ phá banh và thổi nó bay hết. Gặp thỏ, anh Bảy rọi cho nó say đèn rồi bước tới, cách con thỏ chừng vài thước thì nổ súng cày vào mặt đất cạnh đó. Tiếng nổ to khiến con thỏ bật ngửa, nằm im chết giấc, người ta nói nhát như thỏ là vậy. Khi đó chỉ cần xách tai lên búng mạnh vào lỗ mũi là nó chết.

* * *

Hôm ấy chúng tôi không đi săn vì phải ngủ ngoài rẫy giữ bắp vừa thu hoạch, bắp chất cao như núi quanh chòi rẫy. Bù lại, bữa cơm tối có thịt hoẵng xào và rượu đế. Một cô gái khá xinh là vợ chưa cưới của anh ngồi nhìn hai anh em uống rượu. Anh Bảy kể mày biết hông, con hoẵng này đang có chửa. Cái hà nàm (bào thai) nghe nói bổ lắm nhưng tao hông dám ăn, tao cho mấy ông dân rẫy nấu cháo với rau răm nhậu.

Uống say anh kể là bắn hoẵng cực khó, đôi lúc đưa súng lên nhắm trúng rồi, bóp cò xong tưởng có thịt đã thấy nó phóng vút qua bên kia gộp đá rồi mất hút.

Anh rình con hoẵng này từ lâu nhưng lần nào cũng bắn hụt. Thèm thịt thì ít mà tức tối thì nhiều nên quyết săn cho bằng được. Chưa kịp săn thì không thấy nó xuất hiện nữa. Mùa khô khắc nghiệt, núi chỉ còn đá và những cây bụi, cây gai với những ngọn gió khô khốc hú dài suốt ngày đêm khiến mấy con heo, con hoẵng không chịu nổi, chúng đi tìm nguồn nước và thức ăn nơi khác. Cho đến gần đây, đầu hè có mưa nên chúng trở về bìa rừng xóm rẫy.

Con hoẵng cái không về chốn cũ một mình. Nó có bạn tình. Anh Bảy nhìn thấy chúng trên gộp đá ven rừng một buổi sớm. Hai con hoẵng lông mượt như nhung, con này dụi đầu vào cổ con kia trong bình minh, bên trảng cỏ non vừa nhú ở bìa rừng nơi chân núi. Đêm đó anh về lau súng và nạp đạn, 3 giờ sáng hôm sau đã ra bìa rừng, bẻ cành lá che người, hướng nòng súng về gộp đá và rình.

Tia nắng đầu ngày vừa buông vàng trảng cỏ thì đôi uyên ương kia thong dong xuất hiện, sánh bước giỡn nhau rồi cả hai nhảy lên gộp đá, con này dụi đầu vào con kia. Bảy ngồi im, tay đặt lên cò.

Tiếng đạn khô khốc vang lên, con hoẵng cái bật hai vó chân sau nhảy lên rồi rơi bịch xuống tảng đá, lăn xuống. Con hoẵng đực mất hút sau một tiếng “roạt”, nó lao như tên bắn vào lùm cây rồi biến mất. Chắc chẳng bao giờ còn dám quay về.

* * *

Tối đó uống say, hôm sau tôi trở về nhà với hai ký thịt hoẵng anh Bảy cho.

Hai tuần sau thằng Thi bảo tôi: Anh Bảy nhờ anh tìm giùm mấy viên đạn. Nếu hiếm quá thì một viên cũng được.

Tôi ra sân kho hợp tác xã, nói với anh du kích người Chăm đang bảo vệ kho lúa: Anh còn đạn hông, cho em mấy viên. Đưa ba viên đạn vàng chóe cho thằng Thi, tôi nói tiếc quá lần này tao hông vào Thương Diêm theo anh Bảy đi săn được. Mấy hôm sau nó trở ra, tôi hỏi có săn được gì không. Nó nói anh Bảy không cho đi theo, mấy ngày em ở nhà thì ảnh ở ngoài chòi rẫy không về.

Cuối hè tôi có giấy báo trúng tuyển vào đại học, trước khi nhập trường tôi vào Thương Diêm rủ anh Bảy đi săn. Anh nói anh bỏ súng rồi, anh cũng không làm du kích nữa, giờ chỉ làm rẫy. Đám bẫy cò ke anh dẹp một góc nhà, mấy cái bẫy lồng thì để nhốt gà con. Anh đưa ra hai viên đạn: Em cho anh ba viên, anh bắn một, hai viên này để làm kỷ niệm.

Anh nói anh đã bắn chết con hoẵng đực với một phát súng duy nhất. Anh Bảy kể cứ tưởng khi bắn chết con hoẵng cái đang chửa, con hoẵng đực sẽ sợ hãi mà bỏ cánh rừng này đi mất biệt. Không ngờ chỉ một tuần sau vào buổi chiều anh nghe tiếng hoẵng tác. Không có đạn nên anh không ra bìa rừng. Rồi đến chiều sau, chiều sau nữa vẫn thế, vẫn con hoẵng đực tác. Phen này thì mày chết chắc, anh nghĩ thế.

Hôm đó, anh lại bẻ lá cây ngụy trang từ trưa, hướng nòng súng ra gộp đá và chờ. Nắng cuối chiều vừa xiên khoai thì con hoẵng xuất hiện, nó gầy gò, không còn nhún nhảy mà đi chậm rãi. Nó chậm chạp quay mặt nhìn quanh như tìm kiếm rồi thất vọng vì không thấy bạn tình. Rồi nó nhảy lên đứng trên đúng cái gộp đá hôm nào anh bắn chết con hoẵng cái, hướng mặt về phía anh Bảy đang giương súng chờ, mà tác. Tiếng tác ngày càng trở nên đau đớn, hờn oán, nghe như tiếng nấc, dội vào vách núi rồi vọng ra trải dài trên triền núi vắng vàng hoe nắng cuối ngày.

Anh Bảy ngạc nhiên khi thấy con hoẵng đực không hề quan sát hay cảnh giác, nhanh nhẹn như thường thấy ở loài hoẵng và như chính nó mọi khi. Anh nâng súng lên, nó vẫn tác.

Anh Bảy đứng luôn dậy, súng vẫn hướng về phía nó. Còn nó, chắc chắn đã nhìn thấy anh nhưng không chạy, cũng không quan tâm, cứ tác từng tiếng rời rạc, khổ đau như thế, bất chấp gã thợ săn hướng mũi súng về mình. Mỗi lần trước khi tiếng kêu bật ra khỏi miệng, nó hóp bụng trước lại, gầy hằn cả be sườn. Ánh mắt nó nhìn thẳng vào anh nửa như thờ ơ, nửa như hờn oán kẻ đã giết vợ con của nó. Hình như nhiều ngày rồi nó không ăn nên mới gầy yếu thế, bao nhiêu sinh lực đã trút hết cho nỗi cô đơn uất hận, cho nỗi nhớ thương con hoẵng cái và những bào thai còn trong bụng. Với đà này, cũng chỉ tác được dăm hôm là nó sẽ chết vì kiệt sức.

Anh Bảy không chịu nổi tiếng tác ấy thêm một lần nào nữa. Anh đặt tay lên cò súng và nhắm mắt.

Không như con hoẵng cái kia đã nhún hai vó sau lên chực chạy mà không kịp. Con hoẵng đực đứng yên rồi từ từ thân hình nó đổ xuống, chân trước chân sau duỗi song song. Viên đạn chính xác vào giữa trán tạo nên một lỗ nhỏ chỉ nhỉnh hơn đầu đũa.

Anh Bảy chôn xác con hoẵng ngay chân gộp đá rồi khiêng mấy tảng đá đắp lên thành nấm mộ, tháo hai viên đạn còn lại ra khỏi súng và lầm lũi đi về. Anh bỏ luôn thú đi săn sau phát đạn cuối cùng ấy.

Phát đạn giải thoát cho con hoẵng đực khỏi nỗi khổ đau? Tôi hỏi thế.

Anh nói là anh giải thoát cho anh.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm