Người đàn ông trên đống đổ nát

Đây đúng là một lời khuyên hay mà Farbes chưa bao giờ nghĩ tới. Ông sẽ bắt đầu làm từ thiện để rũ bỏ được mọi u sầu. Ông cảm ơn người đàn ông khôn ngoan và khấp khởi bước đi trong niềm hi vọng mới.
 
Tuy nhiên, Farbes cảm thấy rằng mọi việc thực sự không đơn giản. Đem tiền đi cho là việc hoàn toàn mới lạ, ông không biết bắt đầu từ đâu. Farbes thấy rằng hầu hết những người trông như nghèo khổ lại thực sự không phải vậy. Trong khi ông muốn chắc chắn rằng tiền của mình đến đúng với người nghèo khổ. Phải có cách nào đó để tìm ra đúng người gặp khó khăn.

Đột nhiên, Farbes nảy ra một ý tưởng. Ông sẽ làm từ thiện chỉ với những người mất hết hi vọng. Họ mới là những người nghèo thật sự.

Thế là Farbes mặc áo khoác vào và bắt đầu đi xung quanh những nơi được cho là không may mắn như bệnh viện, trại mồ côi, nhà tù, những khu nhà ổ chuột. Nhưng ông không thành công.

Ông đã gặp từ những người bệnh tật, nợ nần, thù địch, vô gia cư, cả những người không xu dính túi, thất nghiệp... nhưng không ai mất hết hi vọng cả.

Một ngày nọ, đang chán nản đi trên đường thì Farbes nghe tiếng rên rỉ phát ra từ sân rác. Ông vội rảo bước đến đó.

Ngồi trên đống rác là một người đàn ông với bộ quần áo rách nát, ở những chỗ da hở là mụn nhọt mọng nước cùng với tiếng rên rỉ đến não nùng.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?”, Farbes vồn vã hỏi.

“Ôi, đừng hỏi”, người đàn ông gắt gỏng trả lời và giơ tay ôm lấy đầu mình. “ Tôi đã mất mọi thứ, tất cả mọi thứ. Tiền của tôi, công việc, nhà cửa, bạn bè, gia đình, tất cả mọi thứ và giờ chỉ có mụn nhọn trên người là làm bạn với tôi”.

“Hãy nói cho tôi biết”, Farbes nôn nóng hỏi, “Anh còn chút hi vọng nào không?”.

“Hi vọng?”, người đàn ông hỏi lại “ Hi vọng với ông nghĩa là gì?”.

“À như anh biết đấy, hi vọng là tin mọi điều sẽ tốt hơn ở tương lai”.

“Tất nhiên là tôi có hi vọng”, người đàn ông bất hạnh ngước đôi mắt nhìn Farbes. “Miễn là tôi vẫn còn sống trên trái đất này thì tôi còn hi vọng. Chỉ có ở nghĩa trang mới không có hi vọng. Ông muốn đi tìm sự vô vọng ư? Hãy đi đến nghĩa trang ấy”.

Bây giờ thì Farbes thực sự tuyệt vọng. Có lẽ nào ông sẽ phải cam chịu mà sống một cuộc đời đau khổ như thế? Không có cách nào để ông làm từ thiện ư?

Bất ngờ một ý nghĩ loé trong đầu ông. Tại sao ông lại không nghe theo lời khuyên của người đàn ông vừa rồi nhỉ. Ông sẽ đi đến nghĩa trang và đặt tiền của mình ở đó. Ông biết rằng nó không có nghĩa chính xác là từ thiện nhưng ít nhất tiền của ông không rơi vào tay kẻ xấu.

Vậy nên vào lúc nửa đêm, ông cầm theo một bao tiền và một cái xẻng lét lút đến nghĩa địa. Ông ngẫu nhiên chọn một ngôi mộ rồi đào cái hố nhỏ chôn tiền, phủ đất lại và thầm lặng ra về.

Ngay khi về tới nhà, Farbes đã cảm thấy tâm trạng tốt hơn, giống như ai đó nhấc được hòn đá nặng đè lên trái tim ông bấy lâu nay.

Một, hai năm trôi qua, Farbes hầu như quên hẳn sự việc xảy ra ở nghĩa địa đêm hôm nào. Nhưng sau đó cuộc đời đâu chỉ là một dòng sông phẳng lặng. Công việc kinh doanh của ông ngày càng gặp khó khăn và một số quyết định sai lầm đã làm thiệt hại không nhỏ cho công ty của Farbes. Công ty ngày càng đi xuống và sau 5 năm thì đứng bên bờ phá sản. Farbes rất cần một số tiền lớn để trả nợ.

Trong lúc túng quẫn, Farbes nhớ ra số tiền mình đã chôn ở nghĩa địa ngày trước. Đó là hi vọng cuối cùng. Đêm đó ông lén lút quay trở lại nghĩa trang đào tiền lên nhưng không may bị cảnh sát bắt.

Một tuần sau, phiên xử bắt đầu và Farbes đứng trước ngài thẩm phán, trông ông như người bệnh ốm nặng sắp chết vậy. Từ một doanh nhân giàu có, thành đạt, luôn luôn sang trọng trong những bộ quần áo đắt tiền, giờ Farbes không còn một xu dính túi, bẩn thỉu vì bị nhốt trong nhà giam. Niềm an ủi duy nhất mà ông có được là những lời nói của người đàn ông năm nào ngồi trên đống rác: “Miễn là tôi còn sống trên trái đất này thì tôi còn hi vọng…”.

Điều tra viên bắt đầu cáo trạng: “Kính thưa ngài thẩm phán. Tôi đã bắt được tên trộm này. Trong tay hắn là cái xẻng. Hắn đang đào trộm trong nghĩa địa để ăn cắp đồ của người chết. Hắn ta còn mang một túi to để đựng răng vàng và những thứ khác của người chết”.

“Ông có gì để biện minh cho bản thân mình không, ông Farbes?”. Ngài thẩm phán quay sang hỏi.

“Thưa ngài, thề có danh dự không phải như vậy. Cách đây mấy năm, tôi đã chôn một ít tiền ở đấy. Khi đó tôi đi tìm một người đã mất hết hi vọng để làm từ thiện. Người thông thái khuyên tôi làm thế thì cuộc sống của tôi mới thanh thản được...”. Farbes nhìn thẩm phán bằng cái nhìn thống thiết để ngài hiểu những gì ông nói là chân thành.

“Ông tiếp tục đi”. Ngài thẩm phán nói.

“Tôi đã gặp một người đàn ông trên đống rác. Người ông ấy đầy mụn nhọt lở loét. Ông ấy bảo tôi nên đi đến nghĩa địa. Vậy nên tôi đã đi đến đó để chôn tiền của tôi và giờ tôi cần quay trở lại để lấy.
 
“Ông có tin được không?”, người cảnh sát kêu lên.

- “Tôi tin anh ta”. Ngài thẩm phán nói. “ Người đàn ông này đã nói sự thật. Thả ông ấy ra. Ông ta vô tội”.

Được phóng thích, Farbes hoang mang. Giữa niềm vui được thả tự do bất ngờ, dường như có điều gì uẩn khúc. Ông thẩm phán - hình như Farbes đã gặp ông ta ở đâu đó rồi. Lục lại trí nhớ, gương mặt đó ở một nơi ông đã gặp và giọng nói “chỉ cần còn sống nghĩa là còn hi vọng” lại vang lên.

Theo Minh Anh (DT/ Chabad)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm